
Có thể bạn quan tâm:
Tại sao Đảng ta đưa chủ trương binh vận là một trong “ba mũi giáp công” để chống lại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ? Đây là câu hỏi quan trọng giúp chúng ta hiểu sâu sắc về một trong những chiến lược đặc sắc trong nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Việt Nam. Bài viết của Lịch Sử – Văn Hóa sẽ phân tích toàn diện về vai trò chiến lược của công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng những đóng góp quan trọng của nó đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tổng quan
Binh vận là công tác đặc biệt mang tầm chiến lược, là chính sách lớn góp phần không ngừng mở rộng và củng cố mặt trận đại đoàn kết dân tộc chống chủ nghĩa thực dân mới, chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bản chất của công tác binh vận là tuyên truyền, vận động, tranh thủ, lôi kéo những người Việt Nam vì những lý do khác nhau mà cầm súng, làm việc cho Mỹ – Ngụy trở về với dân tộc, cùng toàn dân đứng lên chống quân xâm lược và bè lũ tay sai.
Ba mũi giáp công là chiến lược độc đáo của cách mạng Việt Nam, bao gồm đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và binh vận, được triển khai đồng bộ trên ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị. Đây là sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng ta, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Chiến tranh đặc biệt là chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ, được triển khai tại miền Nam Việt Nam giai đoạn 1961-1965. Đây là hình thức chiến tranh được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện chiến tranh của Mỹ. Âm mưu cơ bản của chiến lược này là “dùng người Việt đánh người Việt,” nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử và nhân vật chính
Điều kiện dẫn đến việc áp dụng chiến lược binh vận
Bối cảnh chính trị xã hội và ảnh hưởng nước ngoài
Sau Hiệp định Genève 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Tại miền Nam, Mỹ đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Mỹ xem Việt Nam như một “quân cờ domino” quan trọng trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á. Cuối năm 1960, khi phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam phát triển mạnh mẽ, khiến hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm gặp nhiều khó khăn.
Trước nguy cơ tan rã của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở cơ sở, năm 1961, Mỹ thành lập Bộ Chỉ huy quân sự ở miền Nam, tăng viện trợ quân sự, thiết lập chế độ cố vấn tới cấp tiểu đoàn và chi khu trọng yếu, thúc Ngô Đình Diệm ban hành chế độ quân dịch, bắt lính đôn quân chủ lực. Cuối 1961 đầu 1962, Mỹ cấp tốc triển khai chiến lược chiến tranh đặc biệt với các chiến dịch “Bủa lưới phóng lao”, “Phượng hoàng vồ mồi” hòng tiêu diệt quân ta và thiết lập 16.322 ấp chiến lược trên toàn miền Nam, dự định bình định miền Nam trong 18 tháng.
Các phong trào và nhân vật tiền đề
Trước thực tế đó, Đảng ta nhận thấy cần phải có chiến lược đấu tranh toàn diện, đa dạng để đối phó với âm mưu của Mỹ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 (1/1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã nhận định: “Đảng phải xúc tiến đặc biệt công tác binh vận, kiên trì, bí mật và khéo léo đi sâu tranh thủ được binh lính đồng tình với cách mạng, xây dựng khối công nông binh liên hiệp…”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 (9/1963) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III tiếp tục khẳng định: “Xuất phát từ phương châm đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, chúng ta phải kết hợp đánh địch bằng 3 mũi: Đánh địch bằng chính trị, đánh địch bằng quân sự và đánh địch bằng binh vận … Công tác binh vận phải làm tốt để phục vụ đắc lực cho phương hướng tiến tới Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa của ta.”
Lãnh đạo và chuẩn bị chiến lược
Vai trò của Đảng trong xây dựng công tác binh vận
Đảng ta luôn quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy Ban Binh vận vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng. Nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt đã được phân công phụ trách công tác này. Theo báo cáo của Ban Binh vận Trung ương Cục, cuối năm 1968, số cán bộ Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam có 280 đồng chí. Số cán bộ làm công tác binh vận của các cấp ủy Đảng tại miền Nam lên đến hàng nghìn người, gồm nhiều cán bộ có trình độ thâm niên công tác, có kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh binh vận với quân lực Việt Nam Cộng hòa và kể cả quân đội Mỹ và đồng minh.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác binh vận, đội ngũ cán bộ binh vận từ Trung ương Cục đến cơ sở đã nhận thức đúng vai trò, vị trí, tính chất của công tác binh vận, đặt nó thành một nội dung của đường lối đấu tranh cách mạng, một phương pháp tiến hành chiến tranh. Trong chỉ đạo cụ thể, đội ngũ cán bộ làm công tác binh vận đã đề ra mục tiêu chiến lược, khẩu hiệu sách lược, nội dung, phương thức đấu tranh phù hợp với đặc điểm tình hình địch, ta và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn.
Đồng minh quan trọng và hệ tư tưởng
Một trong những yếu tố quan trọng giúp công tác binh vận đạt hiệu quả là chính sách khoan hồng đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Công tác binh vận của quân và dân ta hướng tới lấy nhân nghĩa để cảm hóa, lấy khoan hồng để đối xử, tuyệt đối không báo oán trả thù, thực hiện chính sách khoan hồng với tù binh, hàng binh, có chính sách phù hợp để sử dụng binh lính, sĩ quan, tướng tá địch trong trường hợp họ thật tâm quay về với nhân dân, với cách mạng.
Ngày 1-9-1967, Ban Binh vận Trung ương Cục ban hành chính sách binh vận gồm 8 điểm đối sĩ quan và binh lính, 4 điểm đối với viên chức chế độ Sài Gòn, khuyến khích binh biến, khởi nghĩa, phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng diệt địch, chiếm căn cứ, kho tàng, sân bay, bến tàu; giải thoát đồng bào bị giam cầm; đụng trận quay súng diệt Mỹ và ác ôn; chạy sang hàng ngũ cách mạng; giúp cách mạng truy kích địch.
Các sự kiện quan trọng và bước ngoặt
Công tác binh vận trong thực tiễn
Các hoạt động cụ thể và kết quả
Công tác binh vận là quá trình tuyên truyền, vận động, tổ chức, hướng dẫn hành động diễn ra rất lâu dài và công phu, gắn liền với phong trào đấu tranh chính trị, với chiến lược, chiến thuật quân sự, được tiến hành đồng thời với tác chiến của lực lượng vũ trang. Ông Nguyễn Trung Tiến, nguyên cán bộ binh vận tỉnh Bạc Liêu, xúc động kể lại: “Có những lần tiếp cận binh lính ngụy, tôi phải kiên trì trò chuyện trong nhiều tháng, thậm chí là năm. Có người ban đầu nghi ngờ, thù địch, nhưng dần dà họ nhận ra lý tưởng cách mạng, rồi bí mật quay súng, trở thành tai mắt quý giá cho ta”.
Những năm 1961–1965, khi Mỹ triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” cùng quốc sách ấp chiến lược, công tác binh vận đạt cao trào trong ba mũi giáp công. Ở vùng nông thôn, binh vận kết hợp với đấu tranh chính trị và vũ trang, phá tan các cuộc bình định; ở đô thị, phối hợp với phong trào học sinh, sinh viên, trí thức phản đối chiến tranh.
Ngày 23-3-1966, Ban Binh vận Trung ương Cục phối hợp với quân đội chỉ đạo nội tuyến nổi dậy trong trung đoàn thiết giáp địch ở Gò Đậu phá nát 36 tăng thiết giáp, đưa về căn cứ một tăng M41, diệt 300 tên địch, căn cứ thiết giáp, căn cứ trung đoàn 8 bộ binh và trung tâm huấn luyện sư đoàn 5 quân đội Sài Gòn bị phá tan.
Tính chung trong hai năm 1962, 1963, nhờ công tác binh vận, tổng số binh sĩ địch rã ngũ lên đến 99.200 tên, số súng ta thu được là 634 khẩu. Tổ chức thanh niên chiến đấu của địch tan rã nghiêm trọng, có tỉnh tan rã đến 95%.
Các quyết định chiến lược và tuyên bố quan trọng
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, tháng 1-1972, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành chính sách binh vận 10 điểm, trong đó coi gia đình có người bị bắt lính là nạn nhân đau khổ, không coi phòng vệ dân sự là lính ngụy, kêu gọi họ tự giải phóng.
Ngày 13-8-1972, Trung ương chỉ đạo: phải đặt vấn đề thắng địch bằng công tác binh vận cũng quan trọng như thắng địch bằng tác chiến. Tháng 7-1974, Trung ương Cục chủ trì Hội nghị Binh vận toàn miền, đánh giá cao vai trò binh vận trong 3 mũi giáp công và đề ra nhiệm vụ tích cực chủ động góp sức cùng 2 mũi quân sự – chính trị, thực hiện xã – ấp tự lực gỡ đồn, diệt phân chi khu, huyện tự lực mở mảng, tiến tới cao trào 3 mũi giáp công, giải phóng huyện, tỉnh.
Thành tựu và kết luận
Tác động đến chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ
Công tác binh vận đã góp phần quan trọng vào việc đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Bằng hoạt động bền bỉ, liên tục, công tác binh vận đã góp phần quan trọng làm sụp đổ ngụy quân, ngụy quyền cả về cơ sở và tổ chức. Có thể nói rằng, công tác binh vận đã làm mục ruỗng chính quyền Mỹ – Ngụy từ bên trong, góp phần tạo điều kiện cho cách mạng ta đập tan chính quyền ấy một cách nhanh chóng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã kiên cường đánh bại chiến lược Chiến tranh Đặc Biệt của Mỹ. Chiến thắng này có những ý nghĩa quan trọng: cách mạng miền Nam tiếp tục giữ vững thế chủ động tiến công; Mỹ đã thất bại trong việc sử dụng miền Nam Việt Nam làm thí điểm một loại hình chiến tranh đàn áp phong trào cách mạng thế giới; Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược Chiến tranh Cục Bộ (thừa nhận sự thất bại của Chiến tranh Đặc Biệt); chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn và sự trưởng thành nhanh chóng của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Các văn kiện lịch sử và thỏa thuận hòa bình
Thắng lợi của ba mũi giáp công, trong đó có công tác binh vận, đã góp phần quan trọng tạo nên các thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam, đặc biệt là buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris năm 1973 và rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bộ Chính trị Đảng ta đã khẳng định: “Binh vận là một mũi tiến công chiến lược nhằm làm tan rã quân đội địch, nhất là để phá tan chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” vô cùng thâm độc của đế quốc Mỹ”. Những chiến công của công tác binh vận càng khẳng định sức mạnh thần kì của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần quan trọng vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ý nghĩa lịch sử và di sản
Tác động chính trị và văn hóa
Bài học rút ra và ý nghĩa đối với hiện tại
Từ thành công của công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, có thể rút ra nhiều bài học quý báu:
Thứ nhất, công tác binh vận đã chứng minh tầm quan trọng của việc kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận thành “ba mũi giáp công” để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Đấu tranh quân sự tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh binh vận và đấu tranh binh vận hỗ trợ, phát huy thắng lợi, nâng cao hiệu quả của đấu tranh quân sự.
Thứ hai, thành công của công tác binh vận cho thấy tầm quan trọng của việc hiểu rõ tâm lý đối phương và vận dụng chính sách khoan hồng, nhân đạo để cảm hóa, lôi kéo. Đây là bài học về cách thức đoàn kết, tập hợp lực lượng trong điều kiện đất nước bị chia cắt.
Thứ ba, công tác binh vận đã góp phần chứng minh rằng, chiến tranh nhân dân của Việt Nam không chỉ dựa vào sức mạnh quân sự mà còn phải tác động trên phương diện tâm lý, chính trị. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới.
Ảnh hưởng lâu dài đến bản sắc dân tộc
Công tác binh vận như một trong ba mũi giáp công đã trở thành một phần của nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Nó không chỉ là một chiến thuật quân sự mà còn là biểu hiện của trí tuệ, bản lĩnh và khả năng sáng tạo của dân tộc Việt Nam trước những thách thức to lớn.
Thành công của công tác binh vận cũng góp phần làm nên bản sắc độc đáo của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng không chỉ dựa vào sức mạnh vũ lực mà còn dựa vào sức mạnh của lòng người, của chính nghĩa và đạo lý dân tộc. Điều này được thể hiện qua phương châm “lấy nhân nghĩa để cảm hóa, lấy khoan hồng để đối xử” trong công tác binh vận.
Di tích, lễ hội và bảo tồn
Các địa điểm lịch sử liên quan
Các di tích ghi dấu công tác binh vận
Có nhiều địa điểm lịch sử gắn liền với những thành công của công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Điển hình là Di tích lịch sử Chiến thắng Đồi 10 tại xã Hoài Châu Bắc, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định – một trong những nơi mà công tác binh vận đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta.
Ngoài ra, chiến thắng Bình Giã (1964-1965) ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng là một minh chứng cho sự phối hợp hiệu quả giữa tác chiến quân sự và công tác binh vận. Chiến thắng này đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, tạo ra thế và lực mới, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng miền Nam lên một bước mới.
Giá trị giáo dục và bảo vệ di sản
Việc bảo tồn và phát huy các di tích liên quan đến công tác binh vận có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Ngày 31/3/2006, Di tích chiến thắng Đồi 10 được Bộ Văn hóa và Thông tin chính thức công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Đây là sự ghi nhận, tri ân của Đảng và Nhà nước đối với những chiến công hiển hách, những đóng góp, hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh giải phóng dân tộc.
Những di tích này có giá trị giáo dục to lớn, là nơi giáo dục truyền thống anh hùng, bất khuất, lòng yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Việc bảo tồn di tích giúp các thế hệ sau hiểu rõ hơn về lịch sử đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, về chiến lược ba mũi giáp công nói chung và công tác binh vận nói riêng.
Kết luận
Tại sao Đảng ta đưa chủ trương binh vận là một trong “ba mũi giáp công” để chống lại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ? Theo những phân tích ở trên, có thể thấy rằng, Đảng ta đưa ra chủ trương này vì những lý do quan trọng sau:
Thứ nhất, cách mạng miền Nam là đi từ phong trào đấu tranh chính trị tiến lên phát động nhân dân tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, binh vận cũng là một hình thức đấu tranh chính trị có hiệu quả[11]. Trong bối cảnh lực lượng cách mạng miền Nam còn yếu, dùng binh vận là một mũi giáp công để thực hiện phương châm “lấy vũ khí địch để đánh địch”.
Thứ hai, công tác binh vận giúp phá tan chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của đế quốc Mỹ. Bằng cách làm tan rã quân đội địch từ bên trong, công tác binh vận đã góp phần làm thất bại âm mưu thâm độc này của Mỹ.
Thứ ba, công tác binh vận phối hợp nhịp nhàng với đấu tranh ngoại giao, tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân thế giới; phục vụ nhiệm vụ chính trị, chống khủng bố, đàn áp, góp phần đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Cuối cùng, mặt trận binh vận là một sáng tạo độc đáo của Đảng ta trong phát triển nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn cuộc kháng chiến, bằng sự chủ động, linh hoạt và sáng tạo, công tác binh vận đã kết hợp sức mạnh to lớn qua từng thời kỳ cụ thể của cách mạng, góp sức vào chiến công chung.
Như Lịch Sử – Văn Hóa đã phân tích, thành công của công tác binh vận trong ba mũi giáp công không chỉ là minh chứng cho sự sáng suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng mà còn là bài học quý báu về nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam – một nghệ thuật độc đáo đã góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc trong thế kỷ XX.
Câu hỏi thường gặp
Binh vận đã góp phần như thế nào vào việc đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ?
Công tác binh vận đã góp phần quan trọng vào việc đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ thông qua nhiều cách. Thứ nhất, nó làm suy yếu và tan rã quân đội Sài Gòn từ bên trong, làm thất bại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của Mỹ. Theo thống kê, chỉ trong hai năm 1962-1963, công tác binh vận đã khiến 99.200 binh sĩ ngụy quân rã ngũ, thu được 634 khẩu súng. Thứ hai, binh vận kết hợp với đấu tranh chính trị và vũ trang đã phá tan “quốc sách ấp chiến lược” – trụ cột của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Thứ ba, các cơ sở nội tuyến được xây dựng qua công tác binh vận đã cung cấp thông tin tình báo quý giá, hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động quân sự của lực lượng cách mạng. Đặc biệt, như trường hợp nội tuyến nổi dậy trong trung đoàn thiết giáp ở Gò Đậu năm 1966 đã phá hủy 36 xe tăng thiết giáp và diệt 300 quân địch.
Vai trò của Ban Binh vận Trung ương Cục trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước?
Ban Binh vận Trung ương Cục đóng vai trò hết sức quan trọng trong công tác binh vận của cách mạng miền Nam. Đây là cơ quan chỉ đạo, hoạch định chính sách và điều phối các hoạt động binh vận trên toàn miền Nam. Ban đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách binh vận quan trọng, như chính sách 8 điểm đối với sĩ quan, binh lính và 4 điểm đối với viên chức chế độ Sài Gòn (1-9-1967). Ban cũng trực tiếp chỉ đạo nhiều hoạt động binh vận có hiệu quả cao như vụ nội tuyến nổi dậy ở trung đoàn thiết giáp Gò Đậu. Đến cuối năm 1968, Ban Binh vận Trung ương Cục có 280 cán bộ, và tổng số cán bộ làm công tác binh vận ở các cấp lên đến hàng nghìn người. Ban đã đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp công tác binh vận với hai mũi tiến công còn lại là quân sự và chính trị, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến lược “ba mũi giáp công”.
Bằng những phương pháp nào cán bộ binh vận thực hiện công tác vận động binh lính Sài Gòn?
Cán bộ binh vận sử dụng nhiều phương pháp sáng tạo, linh hoạt để vận động binh lính Sài Gòn. Phương pháp phổ biến là tiếp cận thông qua gia đình, người thân của binh lính. Ông Nguyễn Trung Tiến, nguyên cán bộ binh vận tỉnh Bạc Liêu chia sẻ rằng ông phải kiên trì trò chuyện với binh lính ngụy trong nhiều tháng, thậm chí là năm, để từng bước cảm hóa họ. Một phương pháp khác là sử dụng truyền đơn, thư từ để tuyên truyền, giải thích về chính sách khoan hồng của cách mạng. Cán bộ binh vận cũng thường xuyên khai thác mâu thuẫn giữa binh lính với cấp chỉ huy, giữa quân đội Sài Gòn với cố vấn Mỹ. Đặc biệt, họ tận dụng những thời điểm binh lính gặp khó khăn, chán nản hoặc sau khi chứng kiến sự tàn bạo của Mỹ-ngụy đối với đồng bào để vận động. Nhiều cán bộ binh vận còn bí mật xây dựng cơ sở nội tuyến trong các đơn vị quân đội Sài Gòn, từng bước mở rộng ảnh hưởng và hình thành mạng lưới bên trong hàng ngũ đối phương.
Những thành tựu cụ thể nào của công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ?
Công tác binh vận đã đạt được nhiều thành tựu cụ thể trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Theo thống kê của Ban Binh vận Khu Tây Nam Bộ, công tác binh vận đã góp phần diệt 1/5 số đồn địch, chưa kể nội ứng phục vụ lực lượng vũ trang diệt đồn. Trong tổng số đồn ta bức địch phải đầu hàng, phải rút bỏ bằng “3 mũi giáp công” kết hợp thì công tác binh vận chiếm 1/3. Năm 1966, nội tuyến nổi dậy trong trung đoàn thiết giáp ở Gò Đậu đã phá hủy 36 xe tăng thiết giáp, diệt 300 quân địch. Trong giai đoạn cuối chiến tranh, công tác binh vận đã góp phần quan trọng vào chiến thắng cuối cùng. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, binh vận đã phát huy cao độ mọi khả năng, góp phần tạo nên thắng lợi trọn vẹn. Tổng kết toàn cuộc kháng chiến, mũi tấn công binh vận đã góp phần làm suy giảm niềm tin, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ quân đội Việt Nam Cộng hòa, xây dựng được nhiều nội tuyến quý giá cung cấp thông tin phục vụ tác chiến.
Bài học nào từ công tác binh vận vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay?
Công tác binh vận để lại nhiều bài học vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay. Thứ nhất là bài học về sức mạnh của đoàn kết dân tộc, về việc tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được, kể cả những người đang ở phía đối lập. Thứ hai là bài học về phương pháp đấu tranh không vũ lực – dùng lẽ phải, đạo lý, tình nghĩa và chính nghĩa để cảm hóa, thuyết phục đối phương. Thứ ba là bài học về tầm quan trọng của việc kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, nhiều biện pháp chiến lược trong giải quyết xung đột. Thứ tư là bài học về chính sách khoan hồng, nhân đạo ngay cả với đối phương – “lấy nhân nghĩa để cảm hóa, lấy khoan hồng để đối xử, tuyệt đối không báo oán trả thù”. Những bài học này có giá trị trong nhiều lĩnh vực hiện nay như đối ngoại, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết xung đột xã hội, và thậm chí trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trong điều kiện mới.
Để lại một bình luận